Triệu chứng sốt, đau hoặc các nhiễm khuẩn thông thường như viêm đường hô hấp… rất hay gặp ở trẻ. Tuy nhiên cần lưu ý…
* Triệu chứng sốt, đau hoặc các nhiễm khuẩn thông thường như viêm đường hô hấp… rất hay gặp ở trẻ. Tuy nhiên cần lưu ý, có một số loại thuốc thông thường dùng để điều trị các tình trạng trên nhưng lại cấm dùng cho trẻ nhỏ.
Thuốc hạ nhiệt, giảm đau
Trong nhóm này cần lưu ý tới thuốc aspirin. Đây là một thuốc có tác dụng giảm đau, hạ sốt và chống viêm. Trẻ em lại thường rất hay bị sốt (do rất nhiều nguyên nhân như mọc răng, nhiễm khuẩn tai, mũi, họng…). Khi trẻ em bị các triệu chứng này người lớn không được tự ý mua aspirin về cho trẻ dùng, vì những bất lợi sau: Làm tăng nguy cơ nhiễm độc hệ tiêu hóa ở trẻ (do thuốc gây hại dạ dày mà niêm mạc dạ dày ở trẻ nhỏ chưa phát triển hoàn thiện); Gây rối loạn cân bằng đông máu (do aspirin làm giảm tập kết tiểu cầu, chống đông máu, nếu trẻ nhỏ đang bị sốt xuất huyết mà uống aspirin sẽ làm xuất huyết trở nên trầm trọng, thậm chí tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời); Đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, việc dùng aspirin có thể làm suy hô hấp. Đối với những trẻ bị hen, suyễn nếu dùng aspirin sẽ làm cho bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.
Ngoài ra, khi dùng aspirin đã gây ra một số trường hợp hội chứng Reye ở trẻ. Hội chứng Reye là một bệnh rất hiếm gặp, có liên quan trực tiếp đến não và gan… sẽ gây ra hiện tượng phù não, thoái hóa tế bào thần kinh não, suy gan… Bệnh bắt đầu với triệu chứng thở nhanh và lượng đường trong máu thấp, nôn mửa, thậm chí co giật hoặc hôn mê. Hội chứng Reye thường xuất hiện ở trẻ dưới 5 tuổi nhưng có thể gặp ở trẻ lớn hơn. Hiện vẫn chưa có cách điều trị, bệnh nhân có thể tử vong trong vòng vài ngày hoặc trở thành tàn phế suốt đời. Nguyên nhân của hội chứng Reye còn chưa được làm rõ, nhưng người ta cho rằng sử dụng aspirin khi trẻ đang bị sốt có thể là yếu tố góp phần dẫn tới bệnh. Vì vậy không nên dùng aspirin cho trẻ dưới 16 tuổi, trừ số trường hợp phải dùng như trong bệnh Kawasaki (một loại bệnh bất thường được đặc trưng bởi sự viêm các mạch máu trong toàn bộ cơ thể. Bệnh này đi kèm với các triệu chứng: sốt; phát ban; sưng tấy bàn chân và bàn tay; xốn và đỏ mắt; kích thích ở màng nhầy vùng miệng, môi và cổ họng; sưng hạch bạch huyết ở cổ. Hậu quả tức thời của bệnh Kawasaki có thể không nghiêm trọng, tuy nhiên, trong một số trường hợp, các biến chứng lâu dài bao gồm cả tổn thương động mạch vành có thể xảy ra), viêm khớp dạng thấp thiếu niên, bệnh Still (ở trẻ em, bệnh Still là một thể của bệnh viêm khớp mạn tính thiếu niên, thuộc thể hệ thống, các viêm khớp xảy ra dưới 16 tuổi và các khớp viêm tiến triển ít nhất 3 tháng)…
Thuốc kháng sinh
Thuốc kháng sinh là một vũ khí lợi hại trị các bệnh nhiễm khuẩn mà trẻ em cũng là đối tượng rất dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn này, nên việc dùng kháng sinh là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, do khi mới sinh ra, các cơ quan trong cơ thể trẻ chưa được phát triển, các chức năng cũng chưa hoàn chỉnh… nên khi dùng thuốc nói chung và thuốc kháng sinh nói riêng cần hết sức thận trọng, không được lạm dụng vì dễ gây ngộ độc thuốc. Một số kháng sinh không được dùng cho trẻ nhỏ, đó là:
Tetracyclin: Là thuốc thường được dùng để uống khi điều trị nhiễm khuẩn toàn thân. Nhưng do việc sử dụng các thuốc nhóm tetracyclin, trong quá trình phát triển của răng có thể gây biến màu răng vĩnh viễn (vàng, xám, nâu), giảm sản men răng, ức chế sự phát triển xương (ảnh hưởng tới sự phát triển của xương), thuốc còn làm căng thóp ở trẻ sơ sinh… nên không dùng tetracyclin cho phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 8 tuổi.
Cloramphenicol: Đây cũng là một trong những kháng sinh rất quen thuộc. Tuy nhiên một trong những bất lợi nghiêm trọng của thuốc là gây ức chế tủy xương. Nếu dùng kéo dài có thể gây suy tủy, thiếu máu không hồi phục. Tình trạng thiếu máu không tái tạo, thiếu máu giảm sản, giảm tiểu cầu và giảm bạch cầu hạt đã xảy ra cả trong hoặc sau khi điều trị ngắn hoặc kéo dài cloramphenicol. Điều nguy hiểm hơn là thuốc có thể gây “hội chứng xanh xám” cho trẻ sơ sinh nhất là trẻ đẻ non (thiếu tháng). Phần lớn các trường hợp gặp hội chứng xanh xám này khi dùng thuốc ngay trong vòng 48 giờ đầu đời của trẻ. Hội chứng xám cũng có thể xảy ra ở trẻ đến 2 tuổi và ở những trẻ sinh ra bởi các bà mẹ đã sử dụng cloramphenicol trong giai đoạn cuối của thai kỳ hoặc khi chuyển dạ. Các triệu chứng của hội chứng xám thường xuất hiện 2 – 9 ngày sau khi bắt đầu điều trị cloramphenicol với biểu hiện bỏ ăn, trướng bụng có hoặc không có nôn, xanh tím tiến triển, trụy mạch có thể kèm theo rối loạn hô hấp, tử vong có thể xảy ra trong vòng vài giờ. Nếu ngừng sớm cloramphenicol ngay sau khi xuất hiện triệu chứng, tác dụng bất lợi này có thể đảo ngược và hồi phục hoàn toàn sau đó. Hội chứng xám là hậu quả của nồng độ thuốc quá cao do trẻ nhỏ không đủ khả năng liên hợp thuốc hoặc thải trừ thuốc dạng không liên hợp.
Ngoài các thuốc trên còn rất nhiều thuốc khác có chống chỉ định hoặc phải dùng rất thận trọng trên đối tượng là trẻ em. Vì vậy, khi trẻ bị ốm, nhất thiết phải đưa trẻ đến khám và chữa bệnh tại các cơ sở y tế để được dùng thuốc thích hợp, hiệu quả và an toàn. Người lớn không tự ý mua thuốc điều trị bệnh cho trẻ hoặc dùng theo lời mách bảo của người khác.
Trước khi dùng bất cứ một thuốc nào (nhất là các thuốc không kê đơn) cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng. Vì những thuốc nào “chống chỉ định” (không được dùng) hoặc thận trọng dùng cho đối tượng là trẻ em, thậm chí tới từng lứa tuổi đều được ghi rõ trong tờ hướng dẫn sử dụng này. Nếu đọc kỹ sẽ giúp ta tránh được những bất lợi cho trẻ.
Nguồn DS. Hoàng Thị Thủy
Sức khỏe & Đời Sống