Cao huyết áp là bệnh lý tim mạch nguy hiểm được xem như “kẻ giết người thầm lặng” vì toàn bộ sự tiến triển của bệnh thường diễn ra trong âm thầm không có triệu chứng. Hiện nay Việt Nam có khoảng 12 triệu người mắc phải, nghĩa là trung bình cứ 5 người trưởng thành thì có 1 người mắc bệnh. Năm 2016, tỷ lệ này ở mức báo động đỏ với hơn 40% người lớn bị tăng huyết áp.
Dưới đây là tổng hợp những nhóm thuốc chính trong điều trị Tăng Huyết Áp được bác sĩ Hồng Vân tổng hợp từ hướng dẫn điều trị: 2018 ESC-ESH Guidelines for the Management of Arterial Hypertension.
Mục lục
1. Nhóm thuốc lợi tiểu
Các thuốc nhóm thiazide thường được coi là những loại thuốc ưu tiên trong điều trị tăng huyết áp và các vấn đề về tim mạch khác liên quan đến huyết áp. Thuốc cũng được sử dụng để điều trị suy tim, suy gan, phù ở mô hoặc rối loạn chức năng thận.
Thuốc giúp đẩy natri (muối) thừa và nước khỏi cơ thể. Điều này sẽ làm giảm lượng chất lỏng trong lòng mạch, từ đó giúp giảm huyết áp.
2. Nhóm chẹn kênh canxi (CCB)
huốc chẹn kênh canxi (CCB), chất đối kháng kênh canxi hoặc chất đối kháng canxi là một nhóm thuốc làm gián đoạn sự di chuyển của canxi thông qua các kênh canxi. Thuốc chẹn kênh canxi được sử dụng làm thuốc hạ huyết áp, tức là thuốc làm giảm huyết áp ở bệnh tăng huyết áp. CCB đặc biệt hiệu quả đối với độ cứng mạch lớn, một trong những nguyên nhân phổ biến gây tăng huyết áp thu ở bệnh nhân cao tuổi. Thuốc chẹn kênh canxi cũng thường được sử dụng để thay đổi nhịp tim (đặc biệt là từ rung tâm nhĩ), để ngăn ngừa co thắt mạch ngoại biên và não, và để giảm đau ngực do đau thắt ngực
3. Nhóm ức chế men chuyển (ACEI)
Thuốc ức chế men chuyển có hai chức năng chính. Đầu tiên, chúng làm giảm hàm lượng natri đang tích tụ trong thận. Thứ hai, chúng ức chế sự sản xuất một loại hormone gọi là angiotensin II. Nội tiết tố này là tác nhân khiến cho các mạch máu bị thu hẹp. Nếu cơ thể không sản sinh loại hormone này nữa, lượng máu lưu thông sẽ dễ dàng hơn. Điều này giúp các mạch máu thư giãn và nới rộng ra, dẫn đến quá trình hạ huyết áp.
4. Thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II (ARB)
Thuốc ức chế thụ thể angiotensin II được dùng đơn lẻ hoặc kết hợp với các thuốc khác để điều trị tăng huyết áp. Đôi khi, bác sĩ sẽ lựa chọn thuốc ức chế thụ thể angiotensin II nếu bệnh nhân gặp vấn đề khi sử dụng chất ức chế men chuyển angiotensin (ACE). ARB ít gây ho cho bệnh nhân. Thuốc cũng được sử dụng để điều trị bệnh động mạch vành, suy tim, tiểu đường tuýp 2 hoặc bệnh thận.
5. Thuốc chẹn Beta (BB)
Chẹn beta có thể được kê để phối hợp với các thuốc điều trị tăng huyết áp khác.
Nguồn: 2018 ESC-ESH Guidelines for the Management of Arterial Hypertension.