Loãng xương là một bệnh lý phổ biến hay gặp ở người cao tuổi, chỉ xếp sau các bệnh lý tim mạch. Theo thống kê, hiện có khoảng 1/3 số nữ giới và 1/8 số nam giới trên 50 tuổi có nguy cơ loãng xương. Có nhiều yếu tố, nguy cơ gây ra loãng xương ở người cao tuổi, trong đó có 1 nguyên nhân mà ít người quan tâm đến là do sử dụng một số loại dược phẩm trong thời gian dài.
Các yếu tố nguy cơ gây giảm mật độ xương bao gồm: di truyền, nữ giới, tuổi cao, ít hoạt động thể lực, dùng cà phê hàng ngày, uống nhiều rượu, hút thuốc… Và một nguyên nhân mà ít người lưu tâm, đó là do sử dụng những loại thuốc có khả năng làm giảm mật độ xương. Một số loại thuốc khi dùng thời gian dài làm tăng quá trình hủy xương và giảm quá trình tạo xương dẫn đến loãng xương. Vì vậy, khi sử dụng những loại thuốc dưới đây, người cao tuổi cần theo dõi chặt chẽ mật độ xương để phòng ngừa nguy cơ loãng xương.
Mục lục
Thuốc chống viêm glucocorticoid
Loãng xương do glucocorticoid là dạng loãng xương phổ biến nhất. Đối với người trưởng thành, ở liều sinh lý glucocorticoid có tác dụng tích cực trên chuyển hóa canxi và xương, nhưng ở liều điều trị và dùng kéo dài sẽ gây mất xương. Có đến 30-50% bệnh nhân bị gãy xương không có chấn thương khi sử dụng glucocorticoid liều cao và kéo dài. Đó là do loại thuốc này làm tăng tiêu xương (tăng chức năng hủy cốt bào) là tác dụng phức tạp và có liên quan đến liều dùng. Tình trạng mất xương xảy ra nhanh và sớm sau khi sử dụng glucocorticoid. Mật độ xương giảm trong 3 tháng đầu. Sau đó, tình trạng mất xương diễn ra chậm nhưng nghiêm trọng nếu tiếp tục sử dụng thuốc (do giảm tạo xương).
Glucocorticoid dễ ảnh hưởng đến các xương xốp nhất, vì vậy, gãy xương thường xảy ra ở những vị trí tập trung nhiều xương xốp như các đốt sống và cổ xương đùi. Để giảm thiểu tai biến gãy xương do glucocorticoid nên giảm liều đến mức thấp nhất nếu có thể và giảm thời gian sử dụng thuốc.
Thuốc giảm acid dạ dày
Calci carbonat cần môi trường acid để có thể hấp thu tối đa. Do đó, những thuốc làm giảm acid của dịch vị dạ dày có thể cản trở sự hấp thu calci. Kết quả từ nhiều nghiên cứu cho thấy nguy cơ gãy xương tăng lên trong trường hợp sử dụng các thuốc này dài ngày (trên 1 năm), nhưng ảnh hưởng này không tỷ lệ với liều dùng.
Các thuốc lợi tiểu quai
Các thuốc lợi tiểu quai có tác dụng điều trị bệnh tăng huyết áp và phù có nguyên nhân do suy tim hay suy thận. Các loại thuốc thường dùng là furosemid và thuốc lợi tiểu kháng aldosteron. Tuy nhiên các thuốc lợi tiểu quai có khả năng làm giảm mật độ xương do làm tăng đào thải calci qua thận, dẫn đến giảm calci máu, huy động calci từ xương để bù lại và gây ra tình trạng mất xương. Khả năng giảm mật độ xương phụ thuộc vào liều của thuốc lợi tiểu và tỷ lệ gặp hiện tượng mất xương trên những người dùng thuốc liên tục cao hơn so với những người dùng thuốc không liên tục.
Thuốc động kinh
Động kinh có thể đe dọa đến cuộc sống của người bệnh nếu không được điều trị, nhưng thuốc dùng để điều trị bệnh như phenytoin hoặc phenobarbital có thể là nguyên nhân dẫn tới mất xương. Vì thuốc làm tăng enzym hydroxylase, oxylase ở gan, khiến cho việc hấp thu canxi trong cơ thể gặp nhiều khó khăn, nên có thể dẫn đến việc hạ canxi trong máu. Khi canxi trong máu hạ, sẽ khiến quá trình tiêu hủy xương xảy ra nhanh hơn. Thậm chí dùng thuốc với liều lượng kéo dài làm ức chế quá trình lắng đọng canxi vào khung xương, gây trở ngại cho việc tạo xương trong cơ thể. Nguy cơ này có thể thay đổi tùy người.
Thuốc chống đông warfarin
Trên lý thuyết, việc sử dụng warfarin có thể làm giảm mật độ xương. Đây là thuốc chống đông kháng vitamin K, yếu tố rất cần thiết cho quá trình carboxyl hóa protein khuôn xương, trong đó có osteocalcin. Osteocalcin nếu không được carboxyl hóa sẽ không thể gắn calci vào. Sự thiếu hụt vitamin K dẫn đến giảm mật độ xương, tuy nhiên, những bằng chứng chứng tỏ mối liên quan giữa việc sử dụng warfarin và mật độ xương thấp còn gây nhiều tranh cãi.
Thuốc trầm cảm
Thuốc ức chế chọn lọc serotonin (SSRIs) gồm các thuốc: fluoxetin, sertraline, citalopram, paroxetine, mesembrine, seproxetine và zimelidine… được chỉ định để điều trị trầm cảm và rối loạn lo âu. Nhóm thuốc này sẽ gây ức chế hoạt động của tế bào tạo xương, nguy cơ loãng xương sẽ tăng theo liều và thời gian dùng thuốc.
Loãng xương là căn bệnh khó điều trị và có thể gây biến chứng nặng. Do vậy người cao tuổi nếu đang phải điều trị bằng các thuốc trên cần lưu tâm đến bệnh loãng xương và có chế độ giám sát thường xuyên mật độ xương trong thời gian sử dụng thuốc. Tuy nhiên cũng không vì tác dụng bất lợi này mà tự ý ngưng sử dụng thuốc. Việc ngưng thuốc hay thay đổi thuốc cần có chỉ định và giám sát của các bác sĩ chuyên môn. Cũng không nên lạm dụng thuốc hay sử dụng thuốc tùy tiện. Sử dụng thuốc tốt nhất là phải tuân theo sự chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc.
Bên cạnh đó, người cao tuổi cũng cần biết cách chủ động phòng ngừa loãng xương bằng cách áp dụng chế độ dinh dưỡng cân bằng và giàu canxi, nếu thiếu hụt phải bổ sung thuốc canxi và vitamin D. Tăng cường luyện tập thể dục, thể thao cũng là biện pháp hữu ích để làm giảm nguy cơ này.
Nguồn: Sức khoẻ Đời sống